Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2025

Quảng Ninh trong những năm kháng chiến chống Pháp

Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954), với sự phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, quân và dân Hải Ninh, Quảng Yên, Hòn Gai đã làm tan rã một mảng lớn lực lượng vũ trang của địch trên chiến trường Đông Bắc, góp phần đáng kể vào thắng lợi to lớn của Chiến dịch Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Quảng Ninh là một trong các chiến trường chính ở Bắc Bộ. Phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân, quân và dân các dân tộc tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên và Hòn Gai đã phối hợp với chiến trường cả nước, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường Đông Bắc.
Đại đội 54, bộ đội tỉnh Hải Ninh trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Tư liệu Đại đội 54, bộ đội tỉnh Hải Ninh trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh: Tư liệu Đã có nhiều chiến dịch được mở trên khu vực Đông Bắc mà quân và dân Quảng Ninh khi đó đã tham gia, giành chiến thắng vang dội, như Chiến dịch Đông Bắc (1948-1949), Chiến dịch Biên giới (1950), phối hợp với Chiến dịch Trung du (1950-1951), Chiến dịch Đường số 18 (1951)… Quân ta đã tiêu diệt, bắt sống hàng ngàn tên địch, thu hàng trăm phương tiện quân sự, nhiều súng ống, đạn dược. Trải qua chiến đấu, lực lượng vũ trang của ta đã không ngừng lớn mạnh. Nhiều đơn vị cấp đại đội, tiểu đoàn đã được thành lập đủ sức đánh những trận lớn, quy mô chiến dịch. Hiện nay, tại Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh lưu giữ một hiện vật độc nhất vô nhị đó là bức trướng Bác Hồ đã thay mặt Chính phủ tặng cho Thành hoàng làng Pò Háng, huyện Đình Lập (khi ấy thuộc tỉnh Hải Ninh, nay thuộc Lạng Sơn). Theo các tư liệu lịch sử, tháng 1/1947, quân Pháp ồ ạt đánh chiếm đường số 4 (từ Quảng Ninh qua Lạng Sơn lên Cao Bằng). Huyện Đình Lập đã thành lập khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc gồm các xã: Bính Xá, Kiên Mộc và Bắc Xa. Ngày 14/4/1947, thực dân Pháp huy động một tiểu đoàn cùng bọn tay sai tiến công khu căn cứ Nà Thuộc. Quân và dân địa phương đã chiến đấu vô cùng anh dũng, đánh lui tiểu đoàn Âu Phi, tiêu diệt hàng chục tên, trong đó có tên đội Pháp. Sau đó, quân Pháp điên cuồng huy động cả máy bay và pháo binh yểm trợ mở 15 cuộc tiến công khu căn cứ Nà Thuộc, nhưng đã bị quân và dân ta đánh tan tác.
Bức trướng Bức trướng "Ủng hộ kháng chiến" Bác Hồ thay mặt Chính phủ tặng cho Thành hoàng làng Pò Háng, huyện Đình Lập (khi ấy thuộc tỉnh Hải Ninh, nay thuộc Lạng Sơn) năm 1948, hiện trưng bày tại Bảo tàng Quảng Ninh. Trước khi xảy ra các trận đánh, tại đình Pò Háng, các cụ cao tuổi đã làm lễ cầu nguyện, phất cờ gõ thanh la, động viên, cổ vũ bộ đội, du kích. Tin vui thắng trận của quân và dân khu căn cứ Nà Thuộc lan đi khắp các chiến trường Việt Bắc và cả nước. Đầu năm 1948, Bác Hồ cho mời lãnh đạo tỉnh Hải Ninh đến báo cáo. Khi biết chuyện cả Thành hoàng làng Pò Háng cũng tham gia kháng chiến, Bác cười vui và nói: “Vậy phải khen thưởng cả Thành hoàng làng”. Nói rồi, Bác đã ký lệnh trao tặng quân và dân khu căn cứ kháng chiến Nà Thuộc Huân chương Chiến công hạng Ba và cho may một bức trướng đặc biệt phong tặng Thành hoàng Pò Háng. Đó là bức trướng vải đỏ thêu các dòng chữ bằng chỉ màu vàng. Chính giữa là dòng chữ Hán: “Kháng chiến hộ ủng” (Ủng hộ kháng chiến), bên dưới có phiên âm chữ quốc ngữ. Bên phải là dòng chữ: Năm thứ ba niên hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Bên trái là dòng chữ: Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh phong tặng đều bằng chữ Hán. Hoà cùng cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang trên chiến trường, giai cấp công nhân và nhân dân Vùng mỏ cũng đẩy mạnh đấu tranh. Với sự chỉ đạo của Đặc khu uỷ, phong trào đấu tranh, phá hoại kinh tế địch của công nhân mỏ phát triển mạnh mẽ, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề. Sản xuất than, điện có nơi, có thời điểm bị ngừng trệ vài tháng. Như ở núi Trọc (Cẩm Phả), đầu năm 1950, sản lượng than của chủ mỏ Pháp từ 1.600 tấn/ngày giảm xuống còn 300 tấn/ngày. Theo https://baoquangninh.vn/
Share:

Quân đội nhân dân Việt Nam trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)

Theo https://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/ Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng Nhân dân ta nhất tề đứng lên, quyết chiến đấu với quân xâm lược. Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở Nam Bộ vẫn tổ chức các chi đội Vệ quốc đoàn, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu đoàn thuộc các chiến khu; hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được thành lập từ Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Các đơn vị Vệ quốc đoàn rời Hà Nội vào Nam chiến đấu. Ảnh tư liệu Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân ta đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc, nơi đây trở thành trung tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước. Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, bất ngờ tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Sau hơn hai tháng mở chiến dịch phản công (7/10 - 20/12/1947), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.000 tên địch. Đây là chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn và làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước. Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Quân đội ta đã có bước trưởng thành, song chưa có khả năng mở những chiến dịch lớn. Để đánh bại âm mưu bình định của địch, ta chủ trương phát động chiến tranh du kích rộng khắp và thực hiện “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”, vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích vừa học tập tác chiến tập trung vận động chiến. Các tiểu đoàn tập trung được củng cố xây dựng và từng bước tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn. Từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1950, bộ đội ta liên tiếp mở trên 20 chiến dịch nhỏ trên các chiến trường. Mức độ tập trung cho mỗi chiến dịch từ 3 đến 5 tiểu đoàn, sau nâng dần lên 2 đến 3 trung đoàn, có chiến dịch sử dụng cả sơn pháo và trọng liên. Trong nhiều trận đánh, quân ta đã tiêu diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở ngoài công sự và tiêu diệt cứ điểm có trên dưới một đại đội địch đóng giữ. Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội độc lập về xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn 308 ra đời; ngày 10/3/1950, Đại đoàn 304 được thành lập. Công tác huấn luyện được đẩy mạnh. Qua các cuộc vận động “luyện quân lập công”, “rèn cán chỉnh quân” trong các năm 1948, 1949 và đầu năm 1950, lực lượng vũ trang ta không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh. Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới, chủ động tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9 - 14/10/1950), ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, phá vỡ thế bao vây, khai thông liên lạc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Chiến thắng Biên giới góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh: Ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, quân Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự; đồng thời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về nghệ thuật chiến dịch và sự trưởng thành lớn mạnh của Quân đội ta. Sau chiến dịch Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được thành lập: Đại đoàn 312 (12/1950), Đại đoàn 320 (1/1951), Đại đoàn công pháo 351 (3/1951), Đại đoàn 316 (5/1951). Trong vòng 6 tháng (12/1950 - 6/1951), ta đã liên tiếp mở ba chiến dịch mang tên: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung. Đây là những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ta đã diệt hơn một vạn tên địch, trong đó gần một nửa là quân cơ động. Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hoà Bình; vừa tập trung chủ lực trên mặt trận chính Hoà Bình, vừa đưa một bộ phận chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Chiến dịch diễn ra từ ngày 10/12/1951 đến ngày 25/2/1952; quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch ở mặt trận Hòa Bình và hơn 15.000 tên địch ở mặt trận địch hậu. Trong chiến dịch này, bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân. Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Sau gần hai tháng chiến đấu (14/10 - 10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng, nối thông vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch. Ngày 5/12/1952, tại Bình - Trị - Thiên, Đại đoàn 325 được thành lập, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách mạng”. Tính đến thời điểm này, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 320, 316, 325) và 1 đại đoàn công binh, pháo binh (351). Trước những thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Thực hiện chủ trương đó, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường. Ta đã hình thành năm đòn tiến công chiến lược tại Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi. Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954). Theo https://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/
Share:

Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945 - 1954

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng, các thế lực đế quốc tràn vào nước ta, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng. Đáp ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc đã nhất tề đứng lên bảo vệ thành quả cách mạng với tất cả các điều kiện có trong tay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính. Sau 9 năm kháng chiến, nhân dân ta đã đánh bại các thế lực xâm lược, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa cho cả nước, chi viện sức người, sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi rất cơ bản. Trên thế giới, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao trên trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát triển, trở thành một dòng thác cách mạng tiến công vào chủ nghĩa đế quốc. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong nước, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra bước ngoặt lớn, đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã được thiết lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc. Đảng lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp giai đoạn 1945 - 1954 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, bộ đội Việt Nam vẫy lá cờ chiến thắng trên nóc hầm của chỉ huy lực lượng Pháp, tướng De Castries. Ảnh tư liệu Tuy nhiên, cách mạng Việt Nam cũng phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Theo thỏa thuận của các nước đồng minh ở Hội nghị Potsdam, cuối tháng 8-1945, từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng ồ ạt kéo vào nước ta làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chân chúng là các lực lượng tay sai phản động trong các tổ chức “Việt quốc” và “Việt cách”. Vào Việt Nam, quân đội Tưởng Giới Thạch và tay sai ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, đánh đổ chính quyền cách mạng. Ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật đã đồng lõa và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông Dương. Đêm 22, rạng sáng 23-9-1945, được sự giúp sức của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Trong khi đó, nước ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế-xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục; ruộng đất bị bỏ hoang; công nghiệp đình đốn; hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ; tình hình tài chính rất khó khăn, hơn 90% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề. Đất nước bị bao vây 4 phía, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Tổ quốc lâm nguy! Trước tình hình đó, ngay sau khi về Thủ đô Hà Nội, Ban Thường vụ Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra những biện pháp để củng cố chính quyền cách mạng và đối phó với âm mưu, hành động của kẻ thù. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị xác định: Tính chất của “cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Kẻ thù chính của cách mạng lúc này là thực dân Pháp xâm lược. Khẩu hiệu lúc này vẫn là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Chỉ thị nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả nước lúc này là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Để thực hiện những nhiệm vụ đó, Trung ương đề ra các công tác cụ thể: Về nội chính: Xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức, lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân. Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. Về ngoại giao: Kiên trì nguyên tắc “bình đẳng tương trợ”, thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “Hoa-Việt thân thiện” đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và chủ trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. Thực hiện chủ trương của Đảng, từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến kiên quyết và mạnh mẽ ở miền Nam, gắn liền với tranh thủ thời gian xây dựng chế độ mới về mọi mặt. Sức mạnh đoàn kết của nhân dân chung quanh Đảng và chính quyền cách mạng thể hiện trong “Tuần lễ vàng”, Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 6-1-1946, ở các phong trào “diệt giặc đói” và “diệt giặc dốt”... Để đối phó với âm mưu nham hiểm của kẻ thù, Đảng đã có đối sách thích hợp với từng kẻ thù: Từ ngày 2-9-1945 đến 6-3-1946, kiên quyết phát động kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam và thực hiện sách lược nhân nhượng có nguyên tắc với quân Tưởng ở miền Bắc. Từ 6-3-1946, khi tình hình thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định Sơ bộ thực hiện hòa hoãn với Pháp để gạt quân Tưởng. Tiếp đó, ký bản Tạm ước 14-9-1946 nhằm cố gắng cứu vãn nền hòa bình và tranh thủ thời gian củng cố lực lượng cho một cuộc toàn quốc kháng chiến mà Đảng ta biết khó có thể tránh khỏi. Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng TP Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng thêm được nữa. Trong thời điểm lịch sử đó, Trung ương Đảng kịp thời hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng được thể hiện trong các văn kiện chủ yếu như: Chỉ thị toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (soạn thảo ngày 12-12-1946, công bố ngày 22-12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (tháng 9-1947) của đồng chí Trường Chinh. Đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Mục tiêu của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất đất nước, vì dân chủ, tự do, hòa bình thế giới. Thủ đô Hà Nội trở thành chiến trường chính trong những ngày đầu kháng chiến toàn quốc. Trải qua 60 ngày đêm chiến đấu kiên cường, anh dũng, sáng tạo, quân và dân Hà Nội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn cơ quan đầu não, tản cư, bảo đảm an toàn cho nhân dân; chuyển hàng nghìn tấn máy móc, vật tư ra An toàn khu, tạo tiềm lực ban đầu cho kháng chiến. Phối hợp với Thủ đô Hà Nội, quân và dân cả nước cũng giành nhiều thắng lợi quan trọng. Đến tháng 3-1947, các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ, Quân đội, Mặt trận đã được chuyển lên Việt Bắc an toàn. Việt Bắc trở thành Thủ đô của cuộc kháng chiến toàn quốc. Về phía Pháp, với bản chất cố hữu của kẻ thực dân, Thu-Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động lực lượng lớn, mở cuộc hành quân lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não, tiêu diệt quân chủ lực, phá tan căn cứ kháng chiến của ta. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và tinh thần sáng tạo, quyết tâm cao, quân và dân ta chiến đấu ngoan cường, giành thắng lợi vẻ vang trong Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông năm 1947, làm thất bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, mở ra giai đoạn mới cho cuộc kháng chiến. Không thể sớm kết thúc chiến tranh theo ý định, các nhà cầm quân Pháp buộc phải chuyển sang “đánh kéo dài”, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”, đồng thời tiến hành “chiến tranh tổng lực”, tăng cường đánh phá nhiều cơ sở của ta. Trước âm mưu của địch, chúng ta không ngừng chiến đấu, phối hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh kinh tế và chính trị; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng tiềm lực kháng chiến. Đến năm 1950, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành về mọi mặt, Đảng và Chính phủ quyết định mở Chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa. Sau 29 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân dân ta đã làm nên thắng lợi quan trọng, tạo ra bước ngoặt căn bản, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta bước sang giai đoạn phản công và tiến công. Quân Pháp lui dần về thế phòng ngự. Lợi dụng sự sa lầy cuộc chiến tranh Đông Dương của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ cho Pháp, ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Trước tình hình đó, Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951) xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Phát huy thế tiến công chiến lược, quân dân ta giành được những thắng lợi quan trọng trên các chiến trường như Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... Chiến tranh nhân dân phát triển đã đẩy quân địch lún sâu vào thế bị động. Trong khi đó, thế và lực của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố, tăng cường. Hòng xoay chuyển tình thế, dựa vào viện trợ Mỹ, Pháp lập Kế hoạch Nava nhằm lấy lại quyền chủ động. Tuy nhiên, trước sự chỉ đạo chủ động, linh hoạt của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh, sự chiến đấu kiên cường, dũng cảm của quân và dân ta, kế hoạch trên bị thất bại, buộc Nava phải đưa quân chủ lực lên Điện Biên Phủ, biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm khổng lồ để tiêu diệt “chủ lực Việt Minh”. Nhưng sau 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân ta đập tan cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp, tạo nên “cột mốc bằng vàng” trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công Chiến lược Đông-Xuân 1953-1954. Trên mặt trận ngoại giao, trên bàn đàm phán, sau hơn 2 tháng đấu tranh gay go, phức tạp, ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và Đông Dương được ký kết. Các bên tham dự hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi khẳng định sức mạnh và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi này đã đưa đến giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo căn cứ pháp lý cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến, kết thúc bằng Chiến dịch Điện Biên Phủ và Hội nghị Geneva, là thắng lợi của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đại tá, PGS, TS TRẦN HỒNG HẢI, Khoa Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị Theo báo www.qdnd.vn
Share: